Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Không giống như một số nền văn hoá khác, chỉ có một đạo thống lĩnh, văn hoá du lịch Hàn Quốc quy tụ nhiều yếu tố đạo khác nhau và hình thành nên cách nghĩ suy và xử sự của con người. Trong giai đoạn đầu của lịch sử phát triển Hàn Quốc, các chức năng đạo và chính trị thường phối hợp với nhau, nhưng về sau giữa chúng đã có sự tách biệt rõ rệt.

Về mặt lịch sử, người Hàn Quốc sống dưới ảnh hưởng của đạo Shaman, đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng, và trong lịch sử hiện đại, lòng tin ở đạo Thiên Chúa đã xâm nhập vào sâu trong đất nước Hàn Quốc với những nguyên tố quan trọng có thể làm đổi thay phong cảnh tinh thần của con người. tiết điệu công nghiệp hoá mau chóng diễn ra trong vài thập kỷ so với vài trăm năm ở châu Âu, đã gây ra những lo ngại và xa lạ lớn phá vỡ sự thăng bình trong tâm hồn người Hàn Quốc, làm cho họ lớp sự bình an trong đạo. thành thử, số tín đồ đạo ngày càng đông, các cơ sở tôn giáo cũng trở thành các tổ chức xã hội có ảnh hưởng lớn.

Tự do tôn giáo được Hiến pháp Hàn Quốc bảo đảm. Theo số liệu thống kê của một cuộc khảo sát từng lớp năm 1995, 50, 7% người Hàn Quốc theo một tôn giáo cụ thể. Số người theo đạo Phật chiếm 46%, tiếp theo là đạo Tin lành với 39%, và số người theo đạo Thiên Chúa chiếm 13% tổng số người theo đạo.

tôn giáo Hàn Quốc

Đạo Shaman
Đạo Shaman là tôn giáo nguyên thuỷ chưa có tính hệ thống nhưng lại thấm sâu vào đời sống hàng ngày của người dân Hàn Quốc qua các câu chuyện dân gian và phong tục tập quán. Vào Thời kỳ đồ đá mới ở Hàn Quốc, con người có lòng tin vào thuyết vật linh cho rằng mọi vật thể trên trái đất đều có vong linh

Đạo Shaman Hàn Quốc

Đạo Shaman của du lịch Hàn Quốc giá rẻ bao gồm nghi lễ phụng dưỡng hàng ngàn những hồn mà người ta tin là đã hoà vào trong thế giới thiên nhiên, như đá, cây cỏ, núi non, suối và bầu trời.

Đạo Phật
Đạo Phật là một đạo có triết lý kỷ luật cao, nhấn mạnh vào sự cứu rỗi của bản thân mỗi người thông qua việc tái sinh trong vòng luân hồi vô tận của sự đầu thai.
Đạo Phật do một nhà sư tên là Sundo đến từ triều Tiền Tần Trung Quốc nhập cảng vào Hàn Quốc năm 372 sau CN – thời kỳ vương quốc Goguryeo. Năm 384, nhà sư Malananda đã đưa đạo Phật vào Baekje từ bang Đông Tấn Trung Quốc. Ở vương quốc Silla, nhà sư Ado từ vương quốc Goguryeo đã truyền bá đạo Phật vào khoảng giữa thế kỷ 15. Đạo Phật nghe đâu được giai cấp cai trị của cả ba vương quốc ủng hộ vì nó là chỗ dựa ý thức ăn nhập với cơ cấu thống trị thời bấy giờ với Đức Phật là tượng trưng thờ cúng độc nhất vô nhị giống như vua là người nắm quyền bính độc nhất vô nhị.

Đạo phật Hàn Quốc

Khi Nhật Bản dùng bạo lực quân sự để lật đổ Joseon, đặt vào đó chế độ cai trị thực dân năm 1910, Yi Seong- gye đã ráng đồng hoá các môn phái đạo Phật ở Hàn Quốc với các môn phái đạo Phật ở Nhật Bản. Mặc dù vậy, ông đã không thành công, và thậm chí còn làm sống dậy niềm tin ở những người Hàn Quốc theo đạo Phật. Những thập kỷ trước có thể xem như thời kỳ phục hưng của đạo Phật và đã có những nạm để thích nghi với sự thay đổi tầng lớp đương đại. phần đông các nhà sư đều ở lại trong vùng núi để tu hành, đắm mình trong giáo luật tự giác và thiền, một số khác đi đến các tỉnh thành để truyền giáo. Có rất nhiều nhà sư đi theo con đường nghiên cứu học thuật về đạo ở các trường đại học trong và ngoài Hàn Quốc. Đạo Phật Hàn Quốc có xu hướng Seon (thiền định) đã cuốn được sự quan hoài của rất nhiều phật tử trong đó có nhiều người nước ngoài qua các bài giảng tại chùa Songwangsa ở tỉnh Jeollanam-do, các trọng điểm Seon ở Seoul và nhiều thành phố khác.

Khổng giáo
Khổng giáo là một tín ngưỡng đạo đức và đạo du nhập từ thế kỷ thứ 6 trước CN. Về cơ bản, đó là hệ thống các kết quả của tri giác đạo đức, tình phúc hậu, sự trung thực, lễ nghi và sự trị vì sáng láng được đặt ra nhằm khuyến khích và giữ giàng những nguyên tắc trị nước tề gia.
Đạo Khổng là một tôn giáo không có Chúa giống như Phật giáo thời kỳ đầu. Cùng với thời gian, những tín đồ sau này đã phong thánh những môn đồ uyên bác và mấu chốt.

Đạo Khổng Giáo Hàn Quốc

Đạo Khổng được quảng bá trước nhất bằng những tài liệu biên chép của người Trung Quốc vào khoảng đầu Công nguyên. Ba vương quốc Goguryeo, Baekje và Silla đều còn lưu giữ những bản ghi chép cho thấy sự tồn tại ảnh hưởng của đạo Khổng từ rất sớm. Ở vương quốc Goguryeo, một trường đại học nhà nước có tên gọi Daehak thành lập năm 372 và một số trường tư dạy đạo Khổng cũng được thành lập. Baekje đã thành lập những trường học tương tự như vậy sớm hơn.

thiên chúa giáo

Làn sóng các hoạt động truyền đạo của đạo gia tô vào Hàn Quốc từ thế kỷ 17, khi chư hầu đi cống nạp Trung Quốc hàng năm đem về các bản chép lại tài liệu tuyên giáo của Matteo Ricci viết bằng chữ Hán. Cùng với các đạo lý của Thiên Chúa giáo, các tài liệu này còn đề cập đến những phương diện kiến thức của phương tây như lịch tính theo thái dương (dương lịch) và nhiều vấn đề khác mà các học giả nghiên cứu của Silhak – trường phái học thuật thực hiện – triều đại Joseon quan hoài.

công giáo Hàn Quốc

Trong và sau thời kỳ chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953), số lượng các tổ chức cứu trợ và các phái bộ truyền đạo thiên chúa giáo đã tăng lên. Năm 1984, Nhà thờ công giáo La Mã ở Hàn Quốc đã tổ chức lễ kỉ niệm hai trăm năm ngày thành lập bằng chuyến thăm Seoul của giáo hoàng John Paul II và lễ phong thánh cho 93 giáo đồ tử vì đạo người Hàn Quốc và 10 giáo đồ người Pháp. Đây là lần trước nhất lễ phong thánh được cử hành ở bên ngoài toà thánh Vatican. Với sự kiện này Hàn Quốc đã trở nên nước có nhiều thánh Thiên Chúa thứ tư trên thế giới, mặc dầu sự phát triển thiên chúa giáo về chất vẫn còn chậm.

Đạo Tin Lành

Năm 1884, Horace N. Allen, một thầy thuốc người Mỹ và một người truyền đạo giáo hội trưởng lão đến Hàn Quốc. Hai người Mỹ là Horace G. Underwood thuộc cùng giáo phái trên và một người truyền đạo của Hội Giám lý thuộc nhà thờ Tân Giáo Henry G.Appenzeller cũng đến Hàn Quốc một năm sau đó. Sau họ còn có nhiều nhà truyền đạo thuộc các giáo phái của đạo Tin Lành đến Hàn Quốc. Các nhà truyền giáo đã đóng góp cho xã hội Hàn Quốc qua việc cung cấp các dịch vụ y tế và giáo dục nhằm truyền bá các triết lý của giáo phái. Những giáo đồ đạo Tin Lành Hàn Quốc như giáo sư Seo ạae- pil, Yi Sang- jae và Yun Chi- ho đều là những nhà lãnh đạo độc lập nguyện cống hiến cho sự nghiệp chính trị.

Đạo Tin Lành Hàn Quốc

Sự lớn mạnh chưa từng có của các nhà thờ đạo Tin lành ở Hàn Quốc đã dẫn đến những hội nghị nghiên cứu kinh Thánh trên quy mô lớn năm 1905. Bốn năm sau, phong trào “Triệu linh hồn vì Chúa” bắt đầu và đã khuyến khích một sự chuyển đổi ồ ạt tín ngưỡng mới sang đạo Tin Lành. Đạo Tin Lành được mọi người chào đón nồng hậu không chỉ như một tín ngưỡng mà còn vì ý nghĩa chính trị, từng lớp, giáo dục và văn hoá của nó.

Cheongdogyo
Khởi đầu, Cheongdogyo là một phong trào tầng lớp và công nghệ nhằm chống lại sự cạnh tranh tràn lan và xâm lấn của các trào lưu nước ngoài vào những năm 1860. Lúc đó gọi là Donghak (Đông học) để đối lập với “Tây học”.
Nguyên tắc của Cheongdogyo là Innaecheon có nghĩa con người được đồng nhất với “Haneullim”, đức Chúa của Cheongdogyo, nhưng con người không hoàn toàn giống Chúa. Mỗi người trong tâm tưởng minh đều mang “Haneullim” – đức Chúa của Cheongdogyo – và điều này là nguồn gốc của phẩm giá của mỗi con người, còn sự tu luyện về ý thức làm cho con người đồng nhất với những điều thần thánh.

Đạo Hồi
Những người Hàn Quốc trước hết nhập Hồi giáo là những người đi sang đông bắc Trung Quốc đầu thế kỷ 20, khi Hàn Quốc còn ở dưới ách thống trị của thực dân Nhật.
Một số rất ít người cải đạo đã quay lại Hàn Quốc sau Đại chiến thế giới II nhưng họ không có chỗ để tiếp chuyện theo đuổi tín ngưỡng của mình cho đến khi quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cùng lực lượng hoà bình liên hợp Quốc tiến vào Hàn Quốc kết thúc thời kỳ chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953) và để họ gia nhập lực lượng này.

Đạo Hồi Hàn Quốc

Lễ khánh thành đạo Hồi được tổ chức vào tháng Chín năm 1955 sau khi bầu Imam (lãnh tụ Hồi giáo) đầu tiên người Hàn. Hội Hồi giáo Hàn Quốc được mở mang và được tổ chức lại thành Liên đoàn Hồi giáo Hàn Quốc năm 1967; nhà thờ Hồi giáo trọng điểm đặt ở Seoul năm 1976.
>>> Tham khảo: http://dulichhanquoc.travel/tour/du-lich-han-quoc-mua-thu-5-ngay

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2015

Tour hàn quốc - Những thay đổi to lớn diễn ra ở châu Á và thế giới nửa sau thế kỷ 20 được cảm nhận rõ trong lối sống hàng ngày của mỗi người dân Triều Tiên. Các phong tục tập quán có nhiều đổi thay lớn do quá trình đương đại hoá từng lớp diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi này, nhiều người cho rằng, dù cho có rất nhiều nhà cao tầng nhưng Hàn Quốc vẫn là một trong những quốc gia mạng đậm dấu ấn Nho giáo nhất trên thế giới.

Trong kí vãng, vài thế hệ thường chung sống trong một nhà và các gia đình muốn có nhiều con để mong có được tình trạng ổn định và an ninh cho gia đình trong tương lai. Không có gì là lạ khi có khoảng 12 người hay đông hơn thế cùng chung sống trong một gia đình. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khuynh hướng chuyển ra thành thị sống và sự phổ quát của các khu chung cư kiểu mới đồng nghĩa với việc các cặp vợ chồng mới cưới có thiên hướng ra ở riêng thay vì sống chung với các thành viên khác trong gia đình. xu hướng này làm gia tăng số lượng gia đình hạt nhân ở Hàn Quốc. Theo truyền thống, người đàn ông lớn tuổi nhất trong gia đình được coi là người nắm giữ quyền hành vô thượng. tuốt luốt các thành viên khác trong gia đình phải làm theo những gì ông ta ra lệnh hoặc mong muốn. Mệnh lệnh phải được tuân ngay lập tức mà không được phép phản đối. Không thể có chuyện con cháu tự đặt mình vào thế phản đối người lớn tuổi hơn. Vâng, lời người lớn luôn được coi là điều dĩ nhiên. Hơn nữa, đạo hiếu được xem là điều linh nghiệm nhất trong số những giá trị đạo đức của đạo nho. Mặt khác, mọi người hiểu rằng chế độ gia trưởng trong gia đình sẽ đem lại công bằng trong tất các vấn đề liên can đến kỷ luật của các thành viên trong gia đình.
>>> Xem tour du lịch hàn quốc mùa thu

Phong tục trong dòng họ

Người Hàn Quốc có mối quan hệ rất gắn bó giữa họ hàng và các thành viên trong họ tộc. Luôn gắn bó với các nguyên tắc truyền thống là lấy gia đình làm trung tâm, gia đình đa đời ở Hàn Quốc là nơi đầu tiên mà người ta hướng về khi họ gặp khó khăn. Những người sống xa nhà thường đoàn viên vào những dịp đặc biệt như hôn lễ của một người họ hàng, sinh nhật lần thứ 60 hay 70, sinh nhật của một đứa trẻ và vào những ngày lễ hội truyền thống. Vào những dịp như vậy mọi người đều dự vào việc chuẩn bị cho buổi lễ. Lòng tôn kính cha ông là rất quan trọng đối với hệ thống họ. Những lễ thức hoài tưởng đặc biệt dành cho ông bà, cụ kỵ được tiến hành ngay tại nhà vào ngày giỗ của họ trong khoảng khoảng từ 1 đến 2 giờ sáng. Từ thế hệ thứ 5 trở đi, những lễ thức như thế này được tổ chức một lần trong một năm vào ngày lễ Chusok (lễ hội gặt mặt trăng), ngày rằm tháng tám hoặc một ngày đẹp đã được chọn trước. Vào những ngày này, con cháu đến bên mộ tổ để cúng bái. Việc cúng bái này quan trọng đến mức mà các thành viên trong gia đình sống xa nhà phải đi một quãng đường dài để về tham dự. Các thành viên trong gia tộc thường tranh thủ những buổi hội tụ như thế này để tổ chức cuộc gặp gỡ hàng năm. Một họ gồm nhiều nhánh và thành viên có thể chia thành những đơn vị nhỏ hơn, mỗi đơn vị có một ngân quỹ và tài sản riêng. cuộc gặp gỡ này được tổ chức để quyết địnhvà triển khai những chính sách vì lợi ích chung như việc sửa sang mồ mả và quản lý tài sản của họ tộc. Người Hàn Quốc rất quý trọng lịch sử gia đình. Nếu một trong số họ thuộc về thế hệ trước, sự tôn trọng cần phải được biểu thị qua cách dùng những từ ngữ xưng hô trọng thể cũng như một số cách dùng từ nhất định ẩn ý rằng hai người này có cùng gốc gác họ hàng.
>>> Thông tin tour du lịch nhật bản giá rẻ
Phong tục hàng năm

Trong suốt mấy nghìn năm, người Hàn Quốc tính thời gian theo lịch âm. Trái với suy nghĩ của nhiều người, lịch âm luôn được điều chỉnh sao cho tương thích với lịch dương bằng phương pháp thêm ngày hay thêm cả một tháng vào một năm âm lịch hai lần trong năm năm. Điều này có thể được minh hoạ ở việc lịch dương được chia thành 24 phần bằng nhau (gọi là chol) mà các điểm nhất thiết là xuân phân, thu phân và đông chí, hạ chí. Khi cộng hay trừ đi một hoặc hai ngày, các điểm giao mùa này gần như trùng với ngày của dương lịch. Tuy nhiên với âm lịch thì lại khác. Chol quan yếu nhất hẳn nhiên là xuân phân, thu phân, hạ chí và đông chí, nhưng ipchun (lập xuân) được tôn trọng hơn cả vì đó là điểm giao mùa trước tiên trong năm và đánh dấu sự bắt đầu của mùa xuân. hiện tại một số ngày nghỉ đặc biệt vẫn được tính theo âm lịch.

Ngày nghỉ của cả nước

tết tây 1-2 tháng Một dương lịch

Tết âm lịch Từ ngày chung cuộc tháng Chạp đến hết ngày mồng hai tháng Giêng âm lịch

Ngày phong trào độc lập: Ngày 1 tháng 3 (dương lịch)

Ngày trồng cây: Ngày 5 tháng 4 (dương lịch)

Ngày Phật đản: Ngày 8 tháng 4 (âm lịch)

Ngày Tết thiếu nhi: Ngày 5 tháng 5 (dương lịch)

Ngày tưởng vọng: Ngày 6 tháng 6 (dương lịch)

Ngày Hiến pháp : Ngày 17 tháng 7 (dương lịch)

Ngày Giải phóng : Ngày 17 tháng 7 (dương lịch)

Ngày Chusok: Ngày 14-16 tháng 8 (âm lịch)

Ngày Lập quốc: Ngày 3 tháng 10 (dương lịch)

Ngày Giáng sinh: Ngày 25 tháng 12

Ngày đầu tiên của tháng Giêng, ngày Tết (gọi là Sõl), là một trong những ngày nghỉ quan trọng nhất trong năm. Vào ngày này, người dân được nghỉ làm, khoác lên mình những bộ trang phục đẹp nhất và đoàn viên với gia đình để làm lễ cúng gia tiên. Người ta tổ chức một bữa tiệc lớn và những thành viên ít tuổi hơn trong gia dình cam kết vâng lời người lớn. Sau đó họ đi chúc Tết họ hàng và người thân.
>>> Tham khảo thêm:
- tour du lịch châu âu- tour du lịch singapore- tour du lịch hàn quốc